Banner blog

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở MÔNG CỔ

Khai thác khoáng sản là ngành lớn nhất trong nền kinh tế Mông Cổ, chiếm khoảng 72% sản lượng công nghiệp, 87% xuất khẩu, 75% FDI và 25% tổng GDP. Do quy mô thị trường Mông Cổ hạn chế, thiếu vốn và công nghệ để thực hiện các hoạt động chế biến có giá trị gia tăng, 88% khoáng sản của Mông Cổ được xuất khẩu mà không qua chế biến. Hầu như tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều được chuyển đến Trung Quốc, nơi mà chúng được các nhà sản xuất Trung Quốc chế biến và sử dụng.

1. Tài nguyên khoáng sản ở Mông Cổ

Khai thác khoáng sản là ngành lớn nhất trong nền kinh tế Mông Cổ, chiếm khoảng 72% sản lượng công nghiệp, 87% xuất khẩu, 75% FDI và 25% tổng GDP. Do quy mô thị trường Mông Cổ hạn chế, thiếu vốn và công nghệ để thực hiện các hoạt động chế biến có giá trị gia tăng, 88% khoáng sản của Mông Cổ được xuất khẩu mà không qua chế biến. Hầu như tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều được chuyển đến Trung Quốc, nơi mà chúng được các nhà sản xuất Trung Quốc chế biến và sử dụng.

Mông Cổ có hai trong số những mỏ đồng lớn nhất thế giới. Mỏ đầu tiên là mỏ đồng-molypden Erdenet ở miền bắc Mông Cổ, là một liên doanh với Liên Xô vào những năm 1970 và hiện vẫn là một doanh nghiệp nhà nước của Mông Cổ. Mỏ lớn thứ hai là mỏ Oyu Tolgoi ở vùng Gobi thuộc miền nam Mông Cổ, được phát hiện vào năm 2001 và đang được các chủ sở hữu khai thác, bao gồm cả Rio Tinto từ Úc. Chính phủ Mông Cổ nắm giữ 34% cổ phần trong mỏ.

Nhìn chung, Mông Cổ ước tính trữ lượng đồng là hơn 1 tỷ tấn. Sản lượng tinh quặng đồng hàng năm dự kiến ​​sẽ tăng gấp đôi từ 300.000 tấn/năm lên hơn 600.000 tấn/năm từ năm 2028 đến năm 2036 khi mỏ Oyu Tolgoi đi vào hoạt động hoàn toàn vào năm 2023. Mỏ ngầm Oyu Tolgoi chứa các thân quặng dự kiến ​​sẽ sản xuất đồng trong ít nhất một trăm năm và các mỏ đồng bổ sung tại Oyu Tolgoi và các địa điểm khác ở Mông Cổ như Kharmagtai và Zun Mod đã được xác định.

2. Các dự án quyền khai thác khoáng sản và hiện trạng của các công ty khai thác khoáng sản

2.1. Các dự án quyền khai thác khoáng sản

Theo dữ liệu từ Cục Quản lý Tài nguyên Khoáng sản và Dầu khí Mông Cổ, tính đến tháng 5 năm 2023, ở Mông Cổ có 1.714 giấy chứng nhận quyền khai thác hợp pháp và 909 giấy chứng nhận quyền thăm dò, với diện tích lần lượt là 18.000 km2 và 44.000 km2, it hơn 4% tổng diện tích của Mông Cổ. Từ năm 2013 đến năm 2014, khi thời hạn của một số lượng lớn quyền thăm dò (9 năm) sớm hết hạn, số lượng quyền khai thác ở Mông Cổ giảm mạnh. Trong 5 năm qua, số lượng giấy phép khai thác có xu hướng ổn định, do chính phủ Mông Cổ kiểm soát việc cấp giấy phép thăm dò nên số lượng giấy phép thăm dò có xu hướng giảm.

Theo số lượng giấy phép khai thác chia theo loại khoáng sản, có 553 mỏ vàng (trong đó có 461 mỏ vàng sa khoáng và 92 quặng vàng) chiếm 32,3% tổng số giấy phép khai thác; có 304 mỏ than chiếm 17,7%; 80 mỏ sắt chiếm 4,7%; có tổng cộng 32 mỏ đồng, mỏ đồng-molypden và mỏ đồng-vàng chiếm 2,1%. Theo số lượng giấy phép khai thác chia theo diện tích đất liền, các mỏ than chiếm 44,1%, mỏ vàng chiếm 16,7%, mỏ đồng chiếm 4,7%, mỏ uranium chiếm 3,6%. Có thể thấy, ở Mông Cổ, các mỏ than, mỏ đồng, mỏ vàng, mỏ fluorit là những khoáng sản có giá trị kinh tế cao hơn.

2.2. Công ty khai thác khoáng sản

Tính đến tháng 5 năm 2023, có tổng cộng 1.683 thực thể kinh tế nắm giữ giấy chứng nhận quyền khai thác khoáng sản ở Mông Cổ, trong đó 1.351 công ty Mông Cổ nắm giữ 2.095 giấy chứng nhận quyền khai thác khoáng sản, 242 công ty có vốn nước ngoài nắm giữ 379 giấy chứng nhận quyền khai thác khoáng sản và 90 liên doanh Mông Cổ-nước ngoài nắm giữ 149 giấy chứng nhận quyền khai thác.

Trong số các doanh nghiệp có vốn nước ngoài và liên doanh Mông Cổ-nước ngoài, doanh nghiệp có vốn từ Trung Quốc có số lượng lớn nhất, chiếm tỷ lệ hơn 40%. Do lợi thế về địa lý giữa Trung Quốc và Mông Cổ, nhiều doanh nghiệp nhỏ của Trung Quốc có thể dễ dàng vào Mông Cổ để thực hiện một số dự án đầu tư khai thác. Tuy nhiên, do năng lực tài chính của hầu hết các doanh nghiệp còn hạn chế nên số lượng giấy chứng nhận quyền khai thác khoáng sản trung bình do các doanh nghiệp do Trung Quốc tài trợ nắm giữ rất thấp. Hiện tại, các doanh nghiệp lớn do Trung Quốc tài trợ ở Mông Cổ bao gồm Công ty TNHH khai khoáng Hâm Đô, Công ty TNHH Tân Hâm, Công ty TNHH Chính Nguyên Mông Cổ, Công ty TNHH Thiên Hồng Mông Cổ, Công ty TNHH Dầu khí Đông Thắng Mông Cổ,...

Ngoài Trung Quốc, các quốc gia và khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Canada, Nga, Anh, Mỹ, Nhật Bản, Luxembourg, Quần đảo Virgin và Australia cũng là những nguồn đầu tư chính của Mông Cổ, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tham gia rộng rãi vào quá trình phát triển khai thác khoáng sản của Mông Cổ. Những công ty chính là Turquoise Hill Resources, Xanadu Mines, Erdene Resource Development, Kincora Copper, Aion Energy Company (Ion Energy), Aspire Mining Limited, Orano Mining,… Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài này đã vào Mông Cổ sớm hơn và hầu hết đều là những doanh nghiệp mạnh về kinh tế và công nghệ. Họ có lợi thế và khả năng cạnh tranh cao hơn trong công tác thăm dò ban đầu ở Mông Cổ, đồng thời có được những mỏ có trữ lượng lớn và là quặng giàu.

3. Những vấn đề tồn tại trong phát triển ngành khai thác khoáng sản ở Mông Cổ

3.1. Đầu tư vào việc thăm dò khoáng sản ở Mông Cổ còn kém và trình độ công tác địa chất thấp

Do ảnh hưởng của sức mạnh kinh tế và trình độ thăm dò địa chất của Mông Cổ, tổng mức đầu tư cho phần này các công việc thăm dò cơ bản như khảo sát địa chất khoáng sản, đánh giá trữ lượng khoáng sản và khảo sát địa chất thủy văn tương đối nhỏ. Theo dữ liệu từ Cơ quan Tài nguyên Khoáng sản và Dầu khí Mông Cổ, khoản đầu tư lũy kế từ năm 2015 đến năm 2019 chỉ khoảng 68,8 tỷ MNT (19,94 triệu USD theo tỷ giá hối đoái hiện hành), dẫn đến công tác địa chất ở Mông Cổ còn ở mức thấp. Tính đến năm 2016, bản đồ địa chất 1:50.000 của Mông Cổ chỉ bao phủ 33,7% tổng diện tích lãnh thổ, bản đồ trọng lực 1:200.000 và 1:100.000 bao phủ 23% tổng diện tích lãnh thổ và các phép đo đa phổ trên không với tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000 bao phủ 32% tổng diện tích lãnh thổ. Trình độ công tác địa chất là cơ sở cho việc thăm dò và phát triển khai thác mỏ, trình độ công tác địa chất thấp ảnh hưởng đến mức độ chi tiết của dữ liệu địa chất và không có lợi cho việc phát triển khai thác mỏ.

3.2. Cơ sở hạ tầng lạc hậu và thiếu nguồn nước

Hệ thống đường sắt, đường cao tốc, đường thủy và vận tải biển của Mông Cổ chưa hoàn thiện, và các sản phẩm khoáng sản chủ yếu được vận chuyển bằng đường sắt và đường cao tốc. Vận tải đường sắt chủ yếu dựa vào Đường sắt xuyên Mông Cổ từ Sukhbaatar đến Zamyn-Uud. Các tuyến đường sắt khác bao gồm tuyến đường sắt cảng biên giới Núi Choiba-Mông Cổ-Nga ở phía đông và tuyến đường sắt Tavan Tolgoi-Zombayin mới được xây dựng ở phía nam, chưa hình thành mạng lưới giao thông. Đường quốc lộ ở Mông Cổ rất ít, hầu hết đều trong tình trạng tồi tàn và khả năng vận chuyển kém. Ngoài phương tiện giao thông, điện lực và phương tiện thông tin liên lạc không thể đáp ứng nhu cầu. 20% điện phải nhập khẩu từ Nga và Trung Quốc, mạng lưới ở các vùng sâu vùng xa vẫn chưa được phủ sóng. Ngoài ra, Mông Cổ là quốc gia thiếu nước. Với sự phát triển không ngừng của ngành khai thác khoáng sản trong những năm gần đây, tình trạng ô nhiễm và khô hạn sông ngòi ngày càng trở nên nghiêm trọng. Vì vậy, chính phủ và người dân Mông Cổ rất coi trọng việc bảo vệ môi trường. Hầu hết các khu vực khoáng sản ở Mông Cổ đều cách xa các tuyến giao thông chính và lưới điện trung tâm. Tình trạng thiếu nước và thiếu phương tiện liên lạc gây cản trở nghiêm trọng cho việc phát triển và sử dụng tài nguyên khoáng sản.

3.3. Nền tảng công nghiệp yếu kém, điều kiện công nghệ sản xuất lạc hậu

Nền tảng công nghiệp của Mông Cổ còn yếu, phương pháp khai thác, công nghệ khai thác và thiết bị khai thác tương đối lạc hậu, ảnh hưởng đến hiệu quả khai thác tài nguyên khoáng sản. Sản phẩm khoáng sản từ lâu đã ở vị trí thấp nhất trong chuỗi công nghiệp, các sản phẩm khoáng sản xuất khẩu như than phần lớn là sản phẩm thô, có giá trị gia tăng thấp. Điều kiện công nghệ sản xuất lạc hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển và sử dụng tài nguyên khoáng sản, ảnh hưởng đến việc tăng giá sản phẩm khoáng sản. Trong “Kế hoạch hành động của Chính phủ Mông Cổ giai đoạn 2020-2024”, Mông Cổ có kế hoạch ưu tiên phát triển công nghiệp nặng và sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Ngoài việc xây dựng nhà máy lọc dầu, còn có kế hoạch triển khai “Dự án xây dựng khu liên hợp khai thác mỏ và luyện kim” của Công ty TNHH Nhà máy luyện kim Darkhan, nhằm xây dựng một nhà máy có dây chuyền công nghiệp hoàn chỉnh từ khai thác quặng sắt đến đến chế biến sản phẩm cuối cùng. Mông Cổ còn dự kiến ​​xây dựng Khu khoa học và công nghệ công nghiệp Tavan Tolgoi và một nhà máy luyện than. Nhà máy luyện than sẽ làm tăng giá trị của mỏ than Tavan Tolgoi bằng cách nâng cao trình độ xử lý.

3.4. Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và các chính sách, quy định thiếu ổn định

Hệ thống pháp luật của Mông Cổ không hoàn thiên, các chính sách và quy định bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố chính trị. Mông Cổ là một quốc gia đa đảng và Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong nước và thực thi quyền lập pháp. Các cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức bốn năm một lần. Sau mỗi cuộc bầu cử, các quan chức chính phủ thay đổi và các nghị quyết chưa được chính phủ trước đó thực hiện sẽ được xem xét lại, ảnh hưởng đến sự ổn định và tính liên tục của các chính sách. Ví dụ, Luật Điều phối đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh doanh chiến lược năm 2012 liệt kê các ngành tài nguyên khoáng sản, tài chính, thông tin truyền thông là các lĩnh vực chiến lược liên quan đến an ninh quốc gia và đặt ra các hạn chế đầu tư nghiêm ngặt đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Việc luật này có hiệu lực đã khiến lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Mông Cổ nhận được giảm đáng kể. Do áp lực tăng trưởng kinh tế, Mông Cổ đã bãi bỏ luật này vào năm 2013 và thông qua “Luật đầu tư” mới, trong đó xóa bỏ các hạn chế đối với lĩnh vực đầu tư của các nhà đầu tư tư nhân nước ngoài. Những thay đổi về chính sách và quy định đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Mông Cổ.

Tóm lại, ngành khai thác khoáng sản đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mông Cổ. Tuy nhiên, hiện nay, Mông Cổ vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng, ưu thế của ngành này. Để phát triển ngành khai thác khoáng sản, Mông Cổ cần nâng cấp các cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ thăm dò địa chất, công nghệ và hoàn thiện các luật, chính sách liên quan đến ngành khai thác khoáng sản và đầu tư nước ngoài.

Trương Phan Thanh Thủy

Trung tâm Nghiên cứu Mông Cổ và vùng lãnh thổ Đài Loan, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tài liệu tham khảo:

1. Jaewon Chung (2023), “The Mineral Industry of Mongolia,” in U.S. Geological Survey, 2019 Minerals Yearbook, U.S. Department of the Interior, Washington, D.C, 18.1-18.6.

2. Charles Krusekopf (2023), “Mongolia’s Development of Critical Minerals: Opportunities and Challenges”, The National Bureau of Asian Research, https://www.nbr.org/publication/mongolias-development-of-critical-minerals-opportunities-and-challenges/.

3. 柴璐, 周永恒, 吴涛涛, 王庆双 & 李霄 (2024), “蒙古国矿业开发现状研究”, 矿产勘查, 15 (6), 991-998 (Chai Lu, Zhou Yongheng, Wu Taotao, Wang Qingshuang & Li Xiao (2024), “Research on the status of mining development in Mongolia”, Mineral Exploration, 15 (6), pp. 991-998), http://www.kckc.org.cn/kckc/article/html/20240608.

0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận

    Tin tức khác

    Đọc nhiều

    Đang truy cập: 9

    Hôm nay: 30

    Tháng hiện tại: 148

    Tổng lượt truy cập: 148